Chương trình GD phổ thông mới cần đáp ứng yêu cầu gì?
(GD&TĐ)-Nhiệm
vụ xây dựng chương trình giáo dục mới đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải
tìm hiểu những đặc điểm tâm lí cơ bản của học sinh Việt Nam, đặc biệt là
nhu cầu, hứng thú của trẻ. Đó là ý kiến tâm huyết của TS.Tạ Thị Ngọc
Thanh (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) trước yêu cầu xây dựng tốt
chương trình giáo dục sau năm 2015.
Chương trình GD phổ thông mới cần gắn với sự phát triển tâm lý HS
Một số biểu hiện thay đổi của học sinh Việt Nam hiện nay có thể khiến
các bậc sinh thành cũng như những người làm giáo dục phải "đau đầu”. Một
trong những thay đổi đó được TS.Tạ Thị Ngọc Thanh đưa ra, đó là văn hóa
đọc của các em đã thay đổi. Thay vì đọc các truyện kinh điển rất được
cha ông ưa thích ngày xưa như "Chiến tranh và hoà bình" của L.Tonxtoi,
"Thép đã tôi thế đấy"..., các em lại thích lướt web hoặc xem truyện
tranh.
Thực hiện phỏng vấn nhiều em học sinh
thuộc nhiều đối tượng, kể cả những sinh viên học rất giỏi, TS.Tạ Thị
Ngọc Thanh nhận thấy, các em đều cho rằng, internet có đủ loại thông tin
mà các em cần; còn truyện tranh viết ngắn, xem nhanh nhưng cũng chứa
đựng các yếu tố hấp dẫn và cả giáo dục nữa. Điều này thích hợp với học
sinh thời nay hơn. Điều đó cho thấy hoàn cảnh thay đổi đã tác động đến
trẻ em và những gì mà chúng ta cho là hay, tốt trước đây thì ngày nay
chưa chắc đã đúng.
Đó chỉ là một trong số rất nhiều những vấn đề đang diễn ra trong tâm lí
thế hệ trẻ phản ánh sự thay đổi trong đời sống kinh tế-xã hội và sự hội
nhập với thế giới qua giao lưu, qua Internet v..v.. Các nhà tâm lí, giáo
dục cần làm gì để đưa ra được một chương trình giáo dục sau năm 2015
phù hợp với thời đại và với yêu cầu mà xã hội đặt ra cho giáo dục?
Đề xuất của TS.Tạ Thị Ngọc Thanh gắn liền với 2 phương hướng nghiên cứu
tâm lý. Với phương hướng những nghiên cứu về từng yếu tố, từng lĩnh vực
phát triển tâm lí, TS.Tạ Thị Ngọc Thanh cho rằng, nên tìm hiểu những
hiện tượng đang gây bức xúc trong dư luận để xem đó có phải là hiện
tượng phổ biến trong học sinh không? Nguyên nhân tâm lí nào khiến học
sinh làm như vậy và biện pháp giáo dục thích hợp? Để từ đó, chúng ta đưa
ra những nội dung và phương pháp giáo dục mới phù hợp, điều chỉnh được
sự phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục đề ra.
Với phương hướng nghiên cứu tổng thể về sự phát triển tâm lí học sinh,
theo TS.Tạ Thị Ngọc Thanh, nên có những nghiên cứu tổng thể sự phát
triển tâm, sinh lí học sinh để xem những đặc điểm tâm, sinh lí của học
sinh hiện nay có gì khác trước đây? Nhu cầu, hứng thú ở các lứa tuổi học
sinh hiện nay là gì?... Đó là cơ sở để xây dựng chương trình giáo dục
mới phù hợp với những thay đổi của học sinh. Đây không chỉ là nghiên cứu
nhằm phục vụ cho việc xây dựng chương trình giáo dục mới, mà còn là
một nghiên cứu cơ bản để xác định gia tốc phát triển tâm, sinh lí của
trẻ em - Điều mà nhiều nước trên thế giới vẫn thường 10 năm tiến hành 1
lần.
Phát triển CTGDPT theo yêu cầu hội nhập quốc tế
PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống (Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam) thì cho rằng, việc phát triển GD nói chung và CTGD
nói riêng cũng không thể không tính đến các yếu tố nhằm đáp ứng yêu cầu
của hội nhập quốc tế.
Theo PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống, gần đây, chương trình giáo dục của nhiều
nước chuyển đổi sang hướng tiếp cận năng lực. Năng lực được hiểu là khả
năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và sự hứng
thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống
phong phú của cuộc sống. Theo hướng này, việc đánh giá kết quả học tập
hướng vào câu hỏi: HS biết làm gì trong những điều chúng biết? Và biết
hành động thế nào cho phù hợp với những tình huống khác nhau? Điều đó có
nghĩa là năng lực không chỉ đòi hỏi có kiến thức, cũng không phải chỉ
có kĩ năng mà cần có cả hai, ngoài ra còn cần thêm các yếu tố khác nữa.
Tiếp cận theo hướng phát triển năng lực, PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống cho rằng,
đòi hỏi chương trình cần xuất phát từ các năng lực thiết yếu cần có
trong cuộc sống hiện tại và tương lai đối với mỗi HS để lựa chọn, đề
xuất các lĩnh vực học tập, các hoạt động GD cho tương thích và hữu ích.
Định hướng này dẫn đến các hệ quả: Hệ thống lĩnh vực/ môn học trong nhà
trường phổ thông có thể thay đổi, có những môn học/ hoạt động mới sẽ
xuất hiện cũng như có môn học/hoạt động không còn phù hợp. Nội dung của
mỗi môn học/hoạt động phụ thuộc vào mục tiêu hình thành và phát triển
năng lực, vì thế không nhất thiết là phải đưa vào môn học/hoạt động tất
cả các nội dung của khoa học tương ứng mà chỉ lựa chọn một số nội dung
có ích cho việc hành thành và phát triển các năng lực cần thiết.
Các hoạt động GD trong nhà trường không
chỉ nhằm giáo dục tư tưởng đạo đức, bồi dưỡng tình cảm mà còn có nhiệm
vụ chuyển tải một số kiến thức và kĩ năng cần cho việc phát triển năng
lực. Các tình huống thực tiễn trong nhiều lĩnh vực quen thuộc, gần gũi
của cuộc sống được quan tâm nhiều hơn, trở thành đối tượng tìm hiểu,
khám phá của chương trình và sách giáo khoa trong nhà trường.
Việc phát triển của chương trình giáo dục phổ thông, theo khảo sát của
PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống tại một số nước, có hai xu hướng lớn. Đó là xây
dựng và quản lí chương trình theo hướng tập quyền và phân quyền. Những
quốc gia thực hiện phân quyền trong quản lí và phát triển chương trình
tập trung xây dựng văn bản chương trình giáo dục quốc gia dưới dạng
khung. Đặc điểm của CT khung là hết sức khái quát, ngắn gọn. Các nước
xây dựng và phát triển CT theo hướng tập quyền thì chỉ có một CTGD quốc
gia duy nhất do chính quyền trung ương xây dựng. Tất cả các địa phương
phải tuân thủ CT này.
Việc phát triển CTGDPT trên thế giới là ngày càng nghiêng về hướng phân
quyền. Ngay cả các nước theo xu hướng tập quyền thì việc biên soạn CTGD
cũng theo hướng mở, để dành một khoảng trống lớn cho các địa phương tự
chủ trong việc vận dụng và thực hiện CT.
Nhìn chung CTGDPT Việt Nam từ trước đến nay đều theo hướng tập quyền,
một CT dùng thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên sự vận dụng và quản lí
CT theo hướng mở ngày càng được chú ý. Từ chỗ tập quyền một cách cứng
nhắc, dập khuôn, máy móc - sản phẩm của một nền giáo dục theo tư duy
đồng phục, dần dần đã chuyển sang mềm dẻo hơn trong vận dụng và chỉ đạo
thực hiện. Tuy một CT nhưng đã chú ý đến việc hướng dẫn thực hiện cho
phù hợp với hoàn cảnh của các địa phương.
PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống cho rằng, Việt Nam
là một đất nước trải dài, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của nhiều
vùng miền rất khác nhau, vì thế CTGDPT và SGK không thể cứng nhắc mà cần
linh hoạt hơn.
Hiếu Nguyễn